Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN
VINH, HẠNH PHÚC
Khát vọng hiểu một
cách chung nhất thì là một trạng thái tinh thần, phản ánh sự ước ao, “mong muốn,
đòi hỏi với một sự thôi thúc mạnh mẽ". Khát vọng chính là nguồn động lực
có sức mạnh vô biên trong mỗi con người, được thể hiện qua những hoạt động
không ngơi nghỉ để con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, không bao giờ khuất phục
trước hoàn cảnh.
Với nhận thức chung
như vậy, có thể thấy khát vọng phát triển của một dân tộc là sự cộng hưởng những
khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia - dân tộc đó, tạo
thành nguồn năng lượng nội sinh to lớn, sống động và sức mạnh vô song. Đó chính
là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương
lai. Đối với Việt Nam, một dân tộc có truyền thống đoàn kết, văn hiến, anh
hùng, khát vọng phát triển đất nước
thực sự là một sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong
suốt tiến trình hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước.
Nhìn lại lịch sử Thời
trung đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong
kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, sáng tạo nên nền văn minh Đại Việt
rực rỡ không phải chủ yếu bằng tiềm năng quân sự, bằng sức mạnh vật chất, mà
trước hết và chủ yếu bằng sức mạnh quật khởi vĩ đại bắt nguồn từ khát vọng về
chủ quyền quốc gia: “Sông núi nước Nam
vua Nam ở” (Lý Thường Kiệt), về một quốc gia Đại Việt “Vốn xây nền văn hiến đã lâu; núi sông, bờ cõi đã chia, phong tục
Bắc, Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi) và khát vọng về một đất nước phú cường “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần
Nhân Tông).
Trong thời đại Hồ Chí
Minh, khát vọng phát triển đất nước tiếp tục được khơi dậy, nâng lên một tầm
cao mới. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng sống động, sáng ngời
về khát vọng cháy bỏng độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Ngay từ khi ra đi tìm
đường cứu nước Người đã mang khát vọng lớn độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh
phúc cho đồng bào. Người khẳng định “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”. Người nhiều lần nhắc nhở “Nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Khát vọng độc lập tự
do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân của Bác không chỉ dừng lại ở suy nghĩ,
tư tưởng mà còn được thực hiện trong từng việc làm cụ thể. Sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chi Minh đã nêu ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa bao gồm 06 vấn đề: (1) Thứ nhất, giải quyết nạn đói. Người đề
nghị Chính phủ “phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất. Trong khi chờ đợi
ngô, khoai và những thứ lương thực phụ khác, phải ba bốn tháng mới có, tôi đề
nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn
một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại phát cho người nghèo" và Người
gương mẫu thực hiện trước; (2) Thứ hai, giải quyết nạn dốt. Theo Người, một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, cần đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn
mù chữ; (3) Thứ ba phải có một hiến pháp dân chủ. Người đề nghị Chính phủ “tổ
chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả
công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt
giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống; (4) Thứ tư, phải giáo dục nhân dân trừ bỏ những
thói xấu do chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn để đầu độc và hủ hoá dân ta,
Người đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục” lại tinh thần nhân dân bằng cách thực
hiện; cần, kiệm, liêm, chính”; (5) Thứ năm, Người đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế;
thuế thân, thuế chợ, thuế đò và tuyệt đối cấm hút thuốc phiện” (6) Thứ sáu, đề
nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và Lương - Giáo đoàn kết.
Trên cương vị Chủ tịch
nước, nguyên thủ quốc gia, Bác bày tỏ niềm hy vọng, niềm tin tưởng mãnh liệt của
mình vào thế hệ trẻ nước nhà, thế hệ sẽ làm cho Tổ quốc được vẻ vang, dân tộc
được hùng cường, có mặt xứng đáng trong thế giới và nhân dân ta có cuộc sống hạnh
phúc. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập (05/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước ở đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em".
Tại Đại hội II của Đảng
(1951) Người tiếp tục nhấn mạnh phải “Xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ phú cường".
Trước lúc đi xa,
trong Di chúc, Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng, cũng là khát vọng tột bậc
"Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thông nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Theo Bác, khát vọng
phát triển đất nước hùng cường cần phát huy tối đa nội lực dân tộc, song cũng cần
tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài. Sau khi
giành chính quyền. Người tuyên bố “Đối với
các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác
trong mọi lĩnh vực", “Nước Việt
Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước
ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình”. Để xây dựng mối quan hệ Việt
- Mỹ lâu dài, trên nhiều lĩnh vực, ngày 01/11/1945, trong thư gửi Ngoại trưởng
Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn “Gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định
một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt
khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các
lĩnh vực chuyên môn khác”. Qua đó cho thấy sự khéo léo và tầm nhìn của Người
trong quan hệ đối ngoại.
Như vậy, ý chí, khát
vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một Việt Nam hùng cường tiếp tục được toàn Đảng,
toàn dân tộc từng bước hiện thực hóa trong công cuộc xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới phát triển đất nước trong 35 năm qua
và trong những chặng đường tiếp theo. Kết quả, thành tựu đem lại rất quan trọng,
khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã
khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Lịch sử phát triển của
các nước và Việt Nam đều cho thấy rõ vai trò quan trọng của việc khơi dậy và
phát huy khát vọng phát triển đất nước trong sự phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh nội sinh giúp các quốc gia, dân tộc vượt qua
mọi khó khăn, thử thách để phát triển. Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
đã xác định rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Khát vọng phát triển đất
nước không những là một trong những động lực quan trọng, mà Đảng còn chủ trương
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước ở một tầm cao mới: phát triển đất nước
Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Học tập, làm theo Bác
để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là nội dung quan trọng
góp phần hiện thực hóa khát vọng Lào Cai, khát vọng Việt Nam. Vì vậy, trong thời
gian tới các tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh quán
triệt chuyên đề học Bác toàn khóa giúp cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập hiểu
rõ từng nội dung, từ đó học theo Bác, làm theo Bác và nêu gương bằng những việc
làm cụ thể, thiết thực. Đặc biệt mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện trở thành tấm gương sáng để quần chúng nhân dân noi theo, nhất là cán
bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp.
(Nguồn: Bản tin Thông báo nội bộ số 133,
tháng 9/2021
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai)